Chuyện Sách Cũ

P.J.B. TRƯƠNG VĨNH KÝ NGƯỜI ĐÃ MỞ ĐẦU MỘT KỶ NGUYÊN VĂN HỌC VIỆT NAM MỚI

P.J.B. TRƯƠNG VĨNH KÝ NGƯỜI ĐÃ MỞ ĐẦU MỘT KỶ NGUYÊN VĂN HỌC VIỆT NAM MỚI

P.J.B. TRƯƠNG VĨNH KÝ NGƯỜI ĐÃ MỞ ĐẦU MỘT KỶ NGUYÊN VĂN HỌC VIỆT-NAM MỚI

VIÊN ĐÀI và NGUYỄN ĐỒNG

Ông không những là một nhà bác học hơn người ở chỗ làm việc rất mải miết, rất đều hòa, mà còn là một nhà văn tiên phong đã phát động trước nhất phong trào quốc âm. Bản tính bình dị và không hề có óc vị kỷ, với sức cố gắng mạnh mẽ và nền học thông thái, Trương Vĩnh Ký đã sống một cuộc đời hoàn toàn hi sinh cho quần chúng. Đọc tiểu sử Trương Vĩnh-Ký, chúng ta sẽ thấy đời ông thực xứng đáng là tấm gương phản chiếu một sức làm việc rất can đảm và bền bỉ trong mọi trường hợp khó khăn.

Ngay từ thuở bé, ông cũng đã gặp nhiều nỗi gian truân. Nhờ đó, tâm hồn và khí phách của ông được tôi luyện tủa chắc, mạnh mẽ thêm. Ông sinh ngày mùng sáu tháng chạp dương lịch năm 1837, nhầm niên hiệu Minh Mạng thứ 17, tại thôn Cái-nông, thuộc làng Vĩnh-thành (Cái-mơn) (2), tỉnh Vĩnh-long: là con thứ ba của Lãnh-binh Trương-Chánh-Thi và Nguyễn-Thị-Châu. Cha mẹ ông cùng theo Cơ-đốc-giáo.

Ông rất hiếu học. Cũng như các trẻ nhỏ Việt-nam thời xưa, thoạt đầu ông theo học chữ Hán với một thầy đồ trong làng. Bấy giờ có một vị giáo sĩ người Việt tên là Tam vì gặp thời kỳ cấm đạo, lánh về vùng Cái-mơn mở trường dạy chữ quốc ngữ. Vốn có óc tân tiến hơn những người đồng hương, ông Thi liền cho con đến học. Lúc này, Trương Vĩnh Ký đã lên năm tuổi.

Năm 1845, ông Thi mất trong khi đang tùng sự ở Nam-vang. Sớm mồ côi cha, nhưng ông được một người mẹ đáng kính mến săn sóc chu đáo, để lại trong tâm hồn ông một ấn tượng hiền dịu không bao giờ phai lạt, khiến ông sau này trở nên một người dễ dãi và hòa nhã vô cùng.

Năm sau, ông được mẹ ký thác cho một nhà truyền giáo người Pháp có tên Việt là cha Long. Nhận thấy Trương Vĩnh Ký có nhiều đức tính đáng chú ý, cha Long có ý định huấn luyện thành một giáo sĩ để sẽ sang truyền đạo ở Cái-nhum. Ông vừa được 9 tuổi.

Tuy có người nuôi nấng và dạy dỗ, cậu bé mồ côi đáng thương không bao giờ sống yên được một chỗ. Trong hai năm học ở trường thày dòng, cậu phải theo cha Long trốn trong rừng rậm, trôi nổi từ nơi này sang nơi khác để tránh sự truy tầm của quan quân. Trên đường gian nan, cậu vẫn cần mẫn học tập và tỏ ra rất có khiếu về khoa ngữ học. Khi vua Tự Đức lên ngôi trị vì (1847), việc cấm đạo càng thêm gắt gao. Cha Long đưa Trương Vĩnh Ký sang Cao-miên, rồi cho vào học nơi trường Pon-hea-lu. Trường trung học này do cha Hoa điều khiển, chuyên nhận những học sinh theo Cơ-đốc giáo ở khắp các nước trên bán đảo Đông-dương: Việt, Miên, Lèo, Diễn-điện, Thái-lan, Trung-hoa.

Thật là một dịp may bất ngờ cho Trương Vĩnh Ký! Nhờ có nhiều bạn khác nước, trong những giờ chơi nhàn rỗi, ông thừa dịp nói chuyện mà học hỏi nhiều ngôn ngữ văn từ cùng cú pháp khác nhau. Tuy mới 11 tuổi, ông tỏ ra xuất sắc hơn các bạn nhờ biết được hơn năm thứ tiếng.

Thời kỳ học tập đầy say mê này kéo dài đến ba năm. Năm 1852, các vị giáo sư đồng ý cho rằng đã đến lúc cần gửi ông sang Poulo-Pénang để học ở Tổng Chủng viện của Viễn-đông quốc ngoại truyền giáo hội. Ông ra đi cùng vài người bạn dưới sự dìu dắt của cha Long.

Poulo-Pénang là một cù lao nho nhỏ ở phía Nam bán đảo Mã-lai. Đường bộ đi từ Nam-vang sang Mã-lai rất xa, có thể chia ra hai chặng mà chặng đầu là Ponhea-lu – Bangkok; sau đó, từ kinh đô Thái-lan, ta có thể đi thẳng sang Singapour. Nhưng chặng thứ hai của cuộc hành trình này không thực hiện được.

Vì hồi đó, muốn đi từ Ponhea-lu tới Bangkok, phải dùng voi để có thể vượt qua các khu rừng rậm hoang vu. Voi thì đã có vua Miên cho mượn. Nhưng tính chúng rất lạ: sau khi đã đưa du khách đến giữa rừng hoang, chúng đột nhiên bỏ họ lại ở đó, mang cả lương thực và hành lý trở về. Bơ vơ trong rừng, số phận của du khách có thể trở nên thảm khốc nếu họ không may mắn gặp được một người thổ dân chỉ cho biết đường về.

Đường đi khó khăn như thế nên sau khi cân nhắc đắn đo, bọn Trương-Vĩnh-Ký đành trở về Sài-gòn. Trương-Vĩnh-Ký đã hàn huyên với mẹ trong vài giờ trước khi đáp tàu sang Singapour, ông không ngờ rằng đó là lần cuối cùng ông gặp lại mẹ. Sang đến nơi, ông được nhận cho vào trường một cách dễ dàng. Thế là mục tiêu đã đạt sau ba tháng hành trình.

Ông ở Poulo-Pénang từ năm 1852 đến năm 1858, nghĩa là từ năm 15 tuổi đến năm 21 tuổi, chuyên học tiếng Hy-lạp, triết học và thần học. Ông tinh thông tiếng La-tinh nhất: trong một cuộc thi luận đề bằng tiếng này, ông đã được vị toàn quyền Anh ở Singapour trao tặng phần thưởng hạng nhất.

Một hôm, trong khi đi dạo trên sân trường, ông gặp một tờ giấy viết tay, liền cúi xuống nhặt lấy đọc và nhận thấy rằng thứ chữ viết trong đó, tuy ông chưa biết là chữ gì, có nhiều điểm giống với chữ La-tinh. Với vốn chữ La-tinh sẵn có, ông hiểu được ý chính và biết rằng đó chính là bức thư gửi cho một trong những giáo sư của ông. Ông liền mang bức thư đến vị giáo sư ấy, và đã làm cho ông này hết sức ngạc nhiên và thán phục thiên tài ngữ học kỳ lạ của ông. Nhờ đó, ông hỏi mượn sách văn phạm và tự điển để bắt đầu học tiếng Pháp.

Trong suốt thời gian theo học ở Poulo-Pénang, ngoài những giờ ông theo chương trình chính, ông cũng theo phương pháp giống như vậy lần lượt học tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Ấn. Ông học thuộc lòng những trích văn trong các sách báo. Cũng như ở Pon-hea-lu, ông đã được các bạn ngoại quốc giúp rất nhiều trong việc học.

Song, khóa học đã đến lúc mãn, sau 6 năm, ông trở về Nam-kỳ mới hay tin mẹ đã mất. Ông về Cái-mơn vào mùa thu năm 1858, và nghĩ đến chức vụ thiêng liêng của mình như những thanh niên đã học ở chủng viện.

Tuy nhiên, ông đã không riêng phụng sự cho tôn giáo mà, trái lại, sống một cuộc đời vô cùng hoạt động. Chúng ta sẽ đọc thấy sau đây đường lối làm việc sáng rõ của con người kỳ tài ấy trong gần hết các bộ môn văn hóa.

Trên trường hoạt động.

Đại úy thủy quân Jauréguiberry, người cai quản binh lính ở Sài-gòn thay cho Đô đốc Rigault de Genouilly bấy giờ đang bận việc ở Đà-nẵng, cần dùng thêm một người thông ngôn phụ giúp cho cha R.P. Croc, nhân viên Quốc ngoại Truyền giáo hội. Nhờ Giám mục Lefebore giới thiệu, Trương-vĩnh Ký bắt đầu giúp việc cho đại úy Jauréguiberry ngày 20-12-1860.

Chúng tôi tưởng cũng nên nhắc độc giả nhớ lại hoàn cảnh cho Việt-nam trong những năm nước Pháp xâm nhập vào nội tình xứ ta. Bấy giờ giới trí thức chia hẳn ra hai phái khác nhau: một là những nhà yêu nước quá khích chủ trương hoàn toàn không tán thành chế độ bảo hộ; phái thứ nhì gồm những người ôn hòa thấy rõ sự yếu của nước mình nên bằng lòng ra hợp tác với chính phủ bảo hộ để tùy cơ nâng cao dân trí và tranh thủ cho nền độc lập bằng đường lối ngoại giao. Trương-vĩnh Ký là một trong những người theo chủ trương sau.

Trong những năm làm thông ngôn, ông đã có nhiều dịp đem hết khả năng ra giúp chánh phủ bảo hộ lẫn triều đình Huế. Chúng ta có thể nói rằng ông đã không ngừng phụng sự cả hai nền văn hóa, đã theo làm việc cho chính phủ Pháp-Việt đến hơi thở cuối cùng. Điều này có hợp lý hay không, chúng ta sẽ xét đến trong chương nói về đời chính trị của ông.

Thực ra, trong thâm tâm, Trương-vĩnh Ký vẫn thích nghiên cứu học tập hơn. Đến năm 24 tuổi, ông cưới con một nhà nho vừa làm thày thuốc ở Chợ-quán, tức là Vương-thị-Tho, người con gái ông đã quen từ vài ba năm trước. Bên cạnh người vợ mới cưới, ông hằng mơ ước những chuỗi ngày yên tĩnh, chỉ làm bạn với đèn sách. Nhưng ông không sao thực hiện được mộng ấy: người Pháp rất ái mộ ông nên luôn giao cho ông nhiều chức vụ quan trọng.

Chính vì thế mà năm 1862, ông được chỉ định theo giúp thiếu tá Simon de Forbin lo việc nghị hòa với triều đình Huế. Nhờ tính giản dị và lòng thành thực, ông đã khéo giữ chừng mực trong khi thông dịch những lời biện thuyết khiến cho cuộc tranh chấp của đôi bên không đi đến chỗ gay cấn. Cũng nhờ có nhiều đức tính mà ông – tuy làm việc cho Pháp – vẫn được người đồng hương mến chuộng; họ cũng không buộc ông tội phản quốc vì ông đã tỏ ra cho họ biết rằng vết thương trong lòng tự ái quốc gia của ông hãy còn rướm máu.

Ông cũng được quan đại thần Phan-thanh-Giản đặc biệt chú ý và tiến cử ông một chức vụ trong việc sang Pháp để phê chuẩn điều ước. Ông được phái theo sứ bộ để làm thông ngôn sang triều kiến vua Nã-phá-Luân đệ tam. Sứ bộ xuống tàu Européen ngày 4-7-1863 và, sau hai tháng lênh đênh trên mặt bề, lên bến Marseille ngày 11-9-1863. Họ xiết đỗi ngạc nhiên trước cảnh đồ sộ của một hải cảng to nhất vùng Địa trung hải. Dân chúng ở Marseille cũng ngạc nhiên không kém khi thấy các quan đại thần Việt-nam xúng xính trong những bộ triều phục diêm dúa. Họ lại càng ngạc nhiên khi thấy một trong nhóm ngoại quốc lạ lùng ấy, tức Trương-vĩnh Ký, có thể nói tiếng Pháp rất sành sõi.

Sứ đoàn lên đến Ba-lê ngày 13-9-1863 nhưng mãi đến ngày 7 tháng 11 mới được đón tiếp ở triều đình hoàng đế Nã-Phá Luân III. Trong điện Tuileries xa hoa tráng lệ, giữa những nghi lễ trọng thể, Trương Vĩnh Ký đã làm mọi người thán phục nhờ tài dịch các bài diễn thuyết của sứ thần Việt-nam (1). Cuộc thương thuyết thành công, các sứ thần vui vẻ đi viếng nhiều tỉnh nước Pháp như Rouen, le Havre, Lorient, Tours, Lyon, Bordeaux. Rồi xuống tàu sang Bồ đào-nha và Y-pha-nho. Đến Madrid (kinh đô Y-pha-nho), họ đã yết kiến Nữ hoàng Isabelle và viếng các đô thị Alicante, Barcelone. Họ cũng theo đường Provence sang Y-đại-lợi viếng Gênes, Florence và Rome. Họ yết kiến đức Giáo hoàng rồi theo đường Xante, Messine, Alexandrie mà về đến Sài-gòn ngày 18-3-1864. (2).

Trong tám tháng, Trương Vĩnh Ký đã đi khắp vùng Nam-Âu, trừ ra Hi-lạp.

Đến nơi nào ông cũng để ý nghiên cứu những phong tục, ngôn ngữ, thâu thập tài liệu để sau này dùng trong những tác phẩm về ngữ học. Ở Pháp, ông giao thiệp với nhiều danh nhân trong văn giới hay chính giới như Littré, Renan, Victor Hugo, Duruy, Paul Bert; ở đâu ông cũng được người kính mến nhờ học rộng, nói khéo và có nhiều đức tính.

Khi trở về nước nhà, ông sống một đời hoạt động lạ thường. Ông đã lần lượt làm thông ngôn ở phủ Toàn quyền, chuyên việc dịch công văn, chủ bút tờ “Gia đình báo”, giáo sư trường Thông ngôn và làm giám đốc trường này từ năm 1866 đến năm 1868.

Năm 1870, sứ đoàn Tây-ban-nha sang Việt-nam, xin quan Thống sứ, Đô đốc Cornulier Lucinière, chọn Pétrus Ký làm thông ngôn vì họ nghe ông nói tiếng Y-pha-nho rất giỏi. Quan thống sứ bằng lòng và Pétrus Ký theo sứ bộ ra Huế. Một phần lớn sự thành công của sứ bộ này là nhờ ở tài biện chứng khéo léo của người thông ngôn.

Sau khi đã tròn nhiệm vụ đối với sứ bộ, ông sang viếng miền Nam Trung-hoa và nhân tiện học thêm nhiều thổ ngữ. Khi về ông được bổ nhiệm chức giám đốc trường Sư phạm và dạy ở trường Trung học Hành chánh. Trong thời kỳ này, ông đã cho xuất bản rất nhiều sách giáo khoa, sách Sử địa, vài quyền bằng chữ La-tinh và Y-pha-nho cùng một quyền “tiểu luận về sự giống nhau giữa tiếng nói và chữ viết của Đông-phương”, nhờ thế, ông được nâng lên ngang hàng với các nhà thông thái.

Ông làm việc mải miết như thế cho đến năm 1876, ông phải đi ra Bắc Việt để khảo sát tâm thái dân chúng theo lịnh của Chính phủ bảo hộ miền Nam. Nhưng, với một lòng yêu đồng bào thiết tha, Trương Vĩnh Ký đã chỉ đóng vai trò chính trị thực sự trong bản phúc trình cho quan Toàn quyền mà thôi. Chính trong bản phúc trình ngày 28-8-1876 này, chúng ta nhận thấy rằng ông theo giúp quân Pháp không phải để mưu cầu lợi riêng (ông rất liêm khiết và chỉ thích lo việc nghiên cứu) mà với mục đích làm một “gạch nối” giữa hai chính phủ, vì lòng ông luôn luôn hướng về đồng bào. Hãy nghe ông nói: “Tôi đã khảo sát cẩn thận các tầng lớp khác nhau trong xã hội và tôi đã lấy làm thương xót vô cùng. Khi tôi để ý xem xét dân tộc tỉnh, tôi tự thú thực rằng họ quả đáng nhận những nỗi đau khổ. Vì họ là một dân tộc hiền lành, cần mẫn, rất dễ cai trị. Phong tục của họ chịu ảnh hưởng của tình trạng hỗn loạn và mập mờ trong đó họ sống. Luôn luôn bị đe dọa bởi chiến tranh, không có gì bảo đảm cho ngày mai, họ ít tận tụy với chủ, người không mấy khi nghĩ đến việc che chở họ. Họ cảm thấy rằng chỉ có một uy quyền được xác định và một quan chức công bình, chính trực sẽ có thể hạn chế được chuỗi đau khổ dài dằng dặc của họ mà thôi. Do đó mà tôi giải thích dễ dàng nguyên nhân khởi loạn của những kẻ có tham vọng, có thể lực mà liều lĩnh… còn quần chúng thì vì quá thèm khát một sự dẫn đạo hữu ích nên thường bị lường gạt luôn và sẵn sàng theo bất cứ một kẻ mạo hiểm nào, để hi vọng tìm gặp sự che chở mà họ đang đói khát thèm thuồng.” (trích trong “Report au Gouverneur de la Cochinchine” ngày 28-8-1876). Chính trong những đoạn như vậy, chúng ta thấy rằng Trương Vĩnh Ký là một người ái quốc, tuy chỉ là một thứ ái quốc ôn hòa.

Chắc độc giả vẫn còn nhớ lúc ở Pháp quốc, Trương Vĩnh Ký đã có giao thiệp với Littré, Renan, Hugo, Duruy, Paul Bert. Khi về nước, ông vẫn tiếp tục nối đường liên lạc với các nhà thông thái ấy bằng thư từ, nhất là với Paul Bert, một nghị viên vừa là nhân viên Pháp quốc Bác học viện. Ngày 31-1-1886, Paul Bert được bổ nhiệm chức Tổng trú sứ ở miền Bắc và miền Trung nước Việt. Ông đến Sài-gòn vào tháng hai năm 1886.

Paul Bert không ngần ngại mời Trương Vĩnh Ký ra giúp mình, mặc dầu ông nghe rất nhiều người đố kỵ dèm pha. Thế là Trương Vĩnh Ký lãnh một chức vụ mới, trong Cơ mật viện ở Huế. Dưới quyền của Pene-Siefert, nhà ngoại giao Pháp, bạn chung của hai người, Trương Vĩnh Ký đã làm tròn nhiệm vụ giữ gìn tình thân ái giữa triều đình ta và chính phủ Pháp. Nhờ ông mà trong 60 năm, nước ta không có giặc giã.

Không may thay! ngày 11-11-1886, Paul Bert mất làm cho ông chán nản, lìa khỏi trường chính trị. Trước kia rất được Paul Bert tín cẩn, còn bây giờ thì chung quanh toàn là những kẻ ganh ghét, nên ông cảm thấy như sống trơ trọi trong không khí nghi kỵ và hiểm thù. Thực ra, ông vẫn bình tĩnh và chịu đựng một cách can đảm, cứng rắn trước những sự nhỏ nhen ấy: nhưng ông không bao giờ ý muốn chống lại những kẻ đối xử không tốt với mình, mà chỉ lặng lẽ rời bỏ đời sống chính trị, lui về mái nhà thân yêu ở Chợ-quán lo việc biên khảo và thở hơi cuối cùng ở đó ngày 1 tháng 9 năm 1898.

Sự nghiệp

Sự nghiệp thân thế ấy có thể tóm lại làm ba tiếng: Bác học, tâm thuật, khiêm tốn.

Ứng Hòe Nguyễn-văn-Tố

Bản tính rất khiêm tốn nhưng với một trí thức rộng rãi, bao quát cả mọi ngành, Trương Vĩnh Ký đã làm người ta ngạc nhiên về sức làm việc mạnh mẽ và số lượng tác phẩm dồi dào. Ông có thể nói và viết 15 thứ tiếng Tây-phương và 11 thứ tiếng Đông-phương. Hãy nghe nhà du lịch Anh J. Thompson nói về ông trong quyển “10 năm du lịch ở Trung-hoa và Đông-dương”: “Trương Vĩnh Ký nguyên là học sinh trường Pénang và tôi không bao giờ quên được nỗi ngạc nhiên của tôi khi được tiếp xúc với ông. Ông nói chuyện với tôi bằng tiếng Anh rất hay, với một giọng nhẹ nhàng như tiếng Pháp, thứ tiếng ông nói không kém thuần chính và văn vẻ. Ông cũng thành thạo tiếng Y-pha-nho, tiếng Bồ-đào-nha, tiếng Ý-đại-lợi và nhiều thứ tiếng đông phương. Chính sự thông hiểu phi thường đó đã nâng ông lên một địa vị cao. Một hôm, đến viếng ông, tôi thấy ông đang soạn quyển “So sánh phân tích những thứ tiếng chính trên thế giới”, cuốn sách đã làm ông phí mất 10 năm chuyên cần. Chung quanh ông là những sách quí giá, một mớ sách Âu và một mớ sách Á. Trong một buổi dạ hội, một giáo sĩ ở Chợ lớn đến với chúng tôi, và khi tôi đi, hai người vẫn ngồi bàn cãi bằng tiếng La-tinh về một vấn đề thần học”.

Chúng tôi xin tùy theo phương tiện mà kể ra hết các sách của ông theo thứ tự năm xuất bản. Dĩ nhiên chúng tôi không thể tránh được thiếu sót, mong các bậc cao minh bổ khuyết giúp cho.

Tác phẩm của Trương-Vĩnh Ký

Năm 1863. 1)Notice sur le Royaume Khmer (Bulletin de la Société de Géographie).

Năm 1866. 2) Chuyện đời xưa lựa nhón lấy những truyện hay và có ích (Sài-gòn, bản in nhà nước).

Năm 1867. 3) Abrégé de la Grammaire Annamite.

Năm 1868. 4) Cours pratique de langue annamite à l'usage du Collège des Interprêtes. 5) Lettre sur les fourmis rouges et les fourmis noires (Bulletin du Comité Agricole et industriel de la Cochinchine).

Năm 1872. 6) Grammaire française - Mẹo luật dạy tiếng Lang-sa.

Năm 1873. 7) Lettre sur les bambous et rotins de la Cochinchine.

Năm 1875. 8) Petit cours de Géographie de la Basse-Cochinchine. 9) Kim-Vân-Kiều (bản in nhà nước) – lời nói đầu viết bằng tiếng Pháp: có phụ thêm Kim-Vân-Kiều phú, Túy Kiều thì tập và Kim-Vân-Kiều tập án. 10) Đại-nam quốc sử diễn-ca (bản in nhà nước). 11) Cours de langue annamite autographié. 12) Cours de langue mandarine ou de caractères chinois autographié. 13) Cours pratique de caractères chinois. 14) Notes sur les diverses espèces de bateaux annamites.

Năm 1876. 15) Sách văn quốc-ngữ. 16) Sử-ký Nam-Việt. 17) Sử-ký Trung-hoa. 18) Tứ thư bằng chữ Hán và chữ quốc ngữ (in thạch-bản). 19) Graines et bois de teinture. 20) Lettre sur le rau câu.

Năm 1877. 21) Sơ-học văn-tâm (tái bản 1884). 22) Cours d'histoire annamite (gồm hai quyển: 184 và 278 trang, bản in nhà nước; quyển đầu 1875).

Năm 1881. 23) Voyage au Tonkin en 1876 - Chuyến đi Bắc-kỳ năm Ất-hợi (1876). 24) Retraite et apothéose de Trương-Lương.

Năm 1882. 25) Gia-huấn ca của Trần Hi-Tăng (Saigon, Guilland et Martinon: 44 trang). 26) Trương Lưu Hâu phú. 27) Saigon d'autrefois. 28) Saigon d'aujourd'hui. 29) Chuyện khôi hài (Saigon, Guilland et Martinon tái bản 1888). 30) Kiếp phong-trần (in lần thứ ba; đến 1885 lại tục bản). 31) Bắt cượng chớ cượng làm chi. 32) Nữ tắc (Guilland) et Martinon – lần thứ hai). 33) Thơ mẹ dạy con. 34) Défauts et qualités des filles et des femmes.

Năm 1883. 35) Phép lịch sự An-nam - Convenances et les civilités annamites. 36) Guide de conversation annamite-français. 37) Thầy trò về luật, mẹo lắt léo tiếng Phú-lang-sa - Maître et Elève sur la Grammaire française. 38) Bài hịch con qua. 39) Thạnh suy bĩ thái phú. 40) Un lettré pauvre - Hàn nho phong-vị phú. 41) Grammaire de la langue annamite.

Năm 1884. 42) Tam tự kinh quốc ngữ diễn-ca (Saigon, Guilland et Martinon đã tục bản 1887). 43) Mặc cúm từ – La dingue. 44) Jeux et opium – Cờ bạc và nha-phiến bằng tiếng thường và văn thơ. 45) Ngư tiều trương điều - Pêcheur et bûcheron. 46) Huấn mông ca, transcription et traduction en annamite et en français. 47) Pháp-Việt tự-điền (Petit Dictionnaire Français-annamite, dày 1192 trang, bản in nhà Chung).

Năm 1886. 48) Conférence sur le souvenir historique de Saigon et ses environs. 49) Cours de la langue annamite aux Européens - Phraséologie, Thèmes, Versions. 50) Cours d'Annamites aux Elèves Européens - Explications du Lục Vân-Tiên. 51) Prosodie et Versification Annamite - Cours d'Annamite aux Elèves Annamites. 52) Cours d'Annamite aux Elèves Annamites - Explications du Lục Vân-Tiên. 53) Kim Vân Kiều en prose - Converti et commenté en langue vulgaire pour les élèves annamites. 54) Théâtres, Comédies, Chansons annamites - Cours aux élèves annamites.

Năm 1887. 55) Cours en caractères chinois, 2e Année - Explications du Mencius, Thèmes, Versions et explications des pièces officielles. 56) Vocabulaire des mots usuels, noms et termes techniques, scientifiques et administratifs. 57) Tam thiên tự giải nghĩa. 58) Résumé de la chronologie de l'Histoire et de la production de l'Annam en tableaux synoptiques. 59) Précis de Géographie. 60) Lục súc - Les six animaux domestiques. 61) Lục súc tranh-công - Dispute de mérite entre les six animaux domestiques (bản in nhà Chung). 62) Alphabet français pour les Annamites. 63) Việt-Pháp tự-điền (dày 1191 trang Rey et Curiol, Saigon).

Năm 1888. 64) Mescellanées ou Lectures instructives pour les élèves des Ecoles et les Familles - Publications mensuelles brochées en deux volumes. 65) Đại nam tam thập nhựt tỉnh thành đồ.

Năm 1889. 66) Tứ thơ (Đại học, Trung-Dung Rey et Curiol, 71 và 137 trang) bằng chữ Hán và chữ Quốc ngữ. 67) Cours de Siamois. 68) Cours de Cambodgiens Ecritures et langue. 69) Đại-nam tam thập nhứt tình địa-đồ. 70) Phan Trần truyện (Sài-gòn, A. Bock, dày 45 trang) 71) Vocabulaire du Cours d'Annamite. 72) Vocabulaire du Cours de Caractères chinois. 73) Lục Vân Tiên truyện (dày 100 trang: tục bản lần thứ tư năm 1897, có sửa lại và thêm nhiều câu chú thích). 74) Grand Dictionnaire Annamite-Français.

Năm 1891. 75) Cours de littérature annamite. 76) Programme général d'Etudes dans les Ecoles annamites. 77) Généalogie de la Famille de P. Trương Vĩnh Ký. 78) Modèles des pièces officielles et administratives en caractères. 79) Cours de littérature chinoises. 80) Mình-tâm bảo-giám (2 quyển 135 và 143 trang Rey, Curiol et Cie) (1891-1893).

Năm 1892. 81) Si vien gia thao.

Năm 1893. 82) Cours de langue Malaise.

Năm 1894. 83) Cours de langue laotienne. 84) Cours de langue Tamoule. 85) Vocabulaire laotien-français. 86) Cours de Géographie générale de l'Indochine avec cartes générales et particulières en 6 parties: 1 – La Cochinchine Française. 2 – L'Annam central. 3 – le Tonkin. 4 – Le Cambodge. 5 – Le Siam 6 – La Birmanie. 87) Mencius - Mạnh-tử. 88) Luận ngữ. 89) Guide de conversation tamoul-français. 90) Cours de langue indoustane. 91) Vocabulaire indoustan-français. 92) Guide de conversation indoustane-française. 93) Guide de conservation laotien-français. 94) Vocabulaire français-malais.

Năm 1895. 95) Guide de la conversation malaise-française. 96) Vocabulaire français-cambodgien. 97) Guide de la conversation cambodgienne - française. 98) Vocabulaire français-siamois. 99) Guide de la conversation Siamoise-française. 100) Cours de langue Birmane. 101) Vocabulaire birman-français. 102) Guide de la conversation birmane-française. 103) Cours de Clampois. 104) Vocabulaire français-clampois. 105) Guide de la conversation clampoise française. 106) Cours d'Annamite parlé (vulgaire). 107) Mẹo tiếng Annam. 108) Cours d'Annamite écrit (mandarin ou caractères chinois). 109) Annam politique et social. 110) Lời bàn của Tự Lực Văn Đoàn về Trương Vĩnh Ký. 111) Những lời phê bình của các nhà nghiên cứu sau này. 112) Recueil des chansons populaires annamites. 113) Recueil d'oraisons funèbres annamites. 114) Recueil de pièces de théâtre annamite. 115) Flore annamite. 116) Sujets historiques des poèmes annamites. 117) Produits de l'Annam. 118) Grammaire de la langue chinoise. 119) Langage de la Cour en Extrême-Orient. 120) Combinaisons des systèmes d'écriture géographique, hiéroglyphique, phonétique, alphabétique. 121) Étude comparée des langues et des écritures. des trois branches linguistiques. 122) Étude comparée sur les langues, écritures, croyances et religions des peuples de l'Indochine. 123) Dictionnaire géographique annamite. 124) Grand dictionnaire Français-Annamite. 125) Dictionnaire Chinois-Français-Annamite. 126) Dictionnaire biographique annamite ou De Viris illustribus regni annamiti. 127) Les Droits de l'Annam dans la vallée du Mékong (mémoires sur).

Trương Vĩnh Ký trong văn giới Việt Nam.

Nhìn qua những tác phẩm của Trương-Vĩnh-Ký, chúng ta nhận thấy ông quả là một nhà bác học hoàn toàn, có một đường lối làm việc và một phương pháp nhất định.

Thoạt đầu có lẽ vì thầy văn học nước nhà quá khô khan tài liệu nên ông chỉ đứng vào vị một nhà xuất bản. Chính trong những quyền văn có chỗ chú thích ấy, ông đã tỏ ra có óc phê bình sáng suốt. Ông sao lục thơ văn cổ không những để nêu ra những khuôn mẫu tư tưởng đáng lãng, tính cẩn thận, dịu dàng, mà còn là để phổ biến chữ quốc ngữ nữa. Chính vì lẽ đó mà từ lúc nhận chức chủ bút tờ Gia đình báo, ông chuyên về động, truyền bá chữ quốc ngữ. Sở dĩ chữ quốc ngữ được phổ thông mau lẹ ở khắp Nam-Kỳ là vì có tờ Gia đình báo và các tác phẩm có diễn trường hàm súc những ý nghĩa luân lý rất được dân chúng mến chuộng.

Ông (chỉ vào Trương Vĩnh Ký) đã biết giúp cho những tư tưởng ấy có thể linh hoạt, ông đã biết theo cái thể văn mà làm cho câu tiếng Việt Nam ấy được nguyên vẹn, không suy chuyển đến văn vẻ, vì ông đã hiểu rằng cái điệu thi ở trong Tứ Thư — không lý thuyết – chính là những cái bọt ngọt, bất thường, không theo lẽ luật câu văn, và cái đặc tính ấy cần phải chiếu theo lý từng lý trong văn quốc ngữ. Người ta có thể thấy cái chỗ dịch không đúng, vật câu không thích hợp: nếu tìm kỹ, người ta có thể thấy cả những chữ sai hẳn nghĩa; nên cũng biết lời văn cổ điển.

Tuy nhiên, Trương Vĩnh Ký hẳn là một nhà văn thuần túy. Trái lại, ông thường nhìn sự vật bằng đôi mắt của một nhà bác học, tuy trầm, ông không bằng lòng với cảnh trí trước mắt mà thích truy tầm đến tận nguồn gốc. Nên tập du ký Chuyến đi Bắc-kỳ năm Ất-hợi của ông không có tính cách văn chương mấy. Tuy nhiên, nó chứng tỏ rằng ông là một người biết quan sát tinh tế. Ông đã tìm hiểu nhiều hơn là nhìn, để rồi ghi lại bằng một giọng văn rất linh hoạt:

“... Trước hết võ hoàng cảnh cũ, Lọt khỏi Ngã-môn-lu, đến Kinh thiên.

Đến ấy nền cao lăm, có chim bạc gay đá Thành, hạt biển có hài con rồng cùng đi, lộn đầu xuống. Cận đến bốn trăm ốm, tính những là gỗ lim cả. Ngó ra dòng sau còn thấy một hạt cung điện cũ chỗ vua Lê ở thuở xưa, bây giờ hư tề còn tích lại đó mà thôi. Ra ngoài cửa Ngũ-môn-lâu, thẳng ra cửa Nam, có cột cờ cao quá mấy bằng gạch, có thang khu ốc trong ruột nó mà lên cho tốt trên chót vót... Cốt rồi một ra đi đến xem chùa Một Cột, là cái miếu cất lên trên đầu cái cột đá lớn trông giữa ao hồ. Nguyên tích ai sáng lập ra thì người ta nói mờ, không biết lấy đâu làm chắc cho mấy. Cứ sách Sử Ký và Đại-Nam Nhứt Thống Chí, thì chùa ông thành động đen kêu là Trần Võ quan tự, ở về huyện Vĩnh-Thuận, phường Đoạn-Chương đời nhà Lê, năm Vĩnh-Trị, năm Canh-tuất, của vua Hi-Tông (1675) sửa lại bặc trọng đồng đen cao 8 thước 2 tấc, nặng 6.600 cân, tay hậu chống trên cây gươm, chỉ mắt trên lưng con rùa, có rắn vấn đoanh theo vỏ gươm. Trong sở núi đồi Thục vua An-Dương bị linh đô ở và phục quỉ núi Thái Diệu, mà nhỏ có thần hiện trên núi Xuân-Lôi thuộc về tỉnh Bắc-Ninh trừ ma phá quỉ hết đi, thì vua dạy lập miếu bia hiện bạc thanh quỉ mà thờ là thần, đặt hiệu là Trần-thiên chắn vô để quản... Còn chùa Một Cột thì cũng ở hạt huyện Vĩnh-Thuận làng Thanh-biểu ở giữa cái hồ vuông, có trụ đá cao trót trường, yếu viền chồng chình trên, trên đám có cái miếu ngồi chỏng lên, như cái hoa sen ở dưới nước ngóc lên. Sử chép rằng: Thuở xưa vua Lý Thái-Tông nằm chiêm bao thấy Phật Quan-Âm ngồi tòa sen dắt vua lên đài. Tỉnh dậy học với quần thần, sự điềm có xấu có hệ chi chăng. Thì thầy chùa thấy bấy lâu xin lập ra cái thể ấy, đặng cho các thầy tụng kinh mà cầu diên thọ cho vua, thì vua cho và dạy lập ra. Qua đời vua Lý Nhân-Tông sửa lại, bôi bồ lạp thấp, đào ao, xây thành, làm cầu, tề tự, hệ tháng tư mồng tám vua ngự ra đó kỹ yên...» (Chuyến đi Bắc-kỳ năm Ất-hợi trg 7-9; trích lại của Vũ-Ngọc-Phan — Văn Hán hiện đại I, trg 24-25).

Ngành chuyên môn chính của Trương-Vĩnh-Ký là ngữ học. Ông thực là một nhà bác học có tài về ngôn ngữ; những cuốn tự điển Việt-Pháp, Pháp-Việt ông soạn rất công phu, đáng làm mẫu mực cho người đời sau. Ông còn vượt hơn thế hệ chúng ta ngày nay nữa bằng nhiều dự định mà đến bây giờ chúng ta vẫn không thể làm hơn ông, như: Etude comparée sur les langues...De viris illustribus regni annamiti (dictionnaire biographique annamite); Flore annamite...

Bằng một sự nghiệp ngữ học cực kỳ vĩ đại (những tác phẩm chúng tôi đã kể trên năm 1894), Trương-Vĩnh-Ký đã được nâng lên địa vị nhà bác học đối với quốc tế. Riêng đối dân tộc Việt-nam, ngoài chức vụ giáo dục, ông còn là một nhà văn có công lớn nhất trong việc phát động phong trào quốc âm và đề cao chữ quốc ngữ. Cùng với P. Của, ông là người đầu tiên đứng ra khai đường mở lối cho một nền văn học Việt-nam mới, và sự nghiệp của ông chúng ta không thể nào quên được.

VIÊN ĐÀI và NGUYỄN ĐỒNG

Bài sưu tầm từ tạp chí bách khoa xưa.

Đang xem: P.J.B. TRƯƠNG VĨNH KÝ NGƯỜI ĐÃ MỞ ĐẦU MỘT KỶ NGUYÊN VĂN HỌC VIỆT NAM MỚI

Viết bình luận

This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.
Bình luận của bạn sẽ được duyệt trước khi đăng lên
0 sản phẩm
0₫
Xem chi tiết
0 sản phẩm
0₫
Đóng